CÕI RIÊNG

"Một mảnh tình riêng ta với ta"

Nghệ thuật chơi chữ trong câu đối

Sáng tác và thưởng thức câu đối là một thú phong nhã của người Việt từ xưa đến nay. Những câu đối độc đáo và giá trị đều là những câu đối có vận dụng tài tình tiếng nói của dân tộc. Bởi vậy, chơi chữ giữ vai trò hết sức quan trọng trong câu đối. Có trên mười kiểu chơi chữ khác nhau trong câu đối xưa và nay.

1. Sử dụng chữ điệp âm đầu:


Thẳng thắn, thật thà thường thua thiệt
Lọc lừa, lươn lẹo lại lên lương

Tết tiếc túng tiền tiêu
Tính toán toan tìm tay tử tế

Cô kia còn kênh kiệu
Kỹ càng cố kén cậu căn cơ

Hội hè hòng hí hửng
Hỏi han hàng họ hẳn hay ho

Mới mẻ mừng mợ mạnh
Mỹ miều mà mở mặt môn mi

Aí ân êm ấm ấy
Ỡm ờ uốn éo ý yêu ai


2. Thay đối trật tự các chữ (hay nói ngược):


Vợ cả, vợ hai, (hai vợ) cả hai đều là vợ cả.
Thầy tu, thầy chùa, chùa thầy cứ việc thầy tu.


Câu đối của tri huyện Lê Kim Thằng và Xiển Bột:
Học trò là học trò con, tóc đỏ như son là con học trò.
Tri huyện là tri huyện Thằng, ăn nói lằng nhằng là thằng tri huyện.


3. Đưa các chữ cùng một đối tượng, một khái niệm vào trong câu đối

Tập trung các chữ chỉ mùa và hướng:
Chợ Đồng Xuân bán bánh trung thu, đông thì đông, nhưng không bán hạ
Người miền Đông làm nhà đất Bắc, Tây thì Tây, vẫn dựng kiểu Nam.


Tập trung nhiều tên cây:
Thầy Bá Bưởi đi xuống cầu Chanh, đồ đề chi mà bưng bồng kín mít.
Cô Tư hồng ở làng cầu Cậy, nhân duyên gì mà quấn quít cho cam.


Nhân một cuộc nhàn du, đến thăm ngôi chùa nọ, thấy Sư Cụ trụ trì có viết một vế đối ra cho khách thập phương tới lễ chùa rằng:

Đọc ba trăm sáu mươi quyển kinh, chẳng thần, thánh, Phật, Tiên nhưng khác tục!

Cụ Nguyễn Công Trứ cho rằng nhà tu hành có vẻ tự kiêu quá nên đã đối lại:
Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ, không quân, thần, phụ, tử, đếch ra người!


4. Vận dụng sự nói lái :

Khá hay, nhưng khi nói lái, nhiều từ ngữ lại mang nghĩa tục

Câu này khá thông dụng:

Con cá đối nằm trên cối đá

Đặc biệt, mỗi thành phần của hai vế đều là nói lái:
Thầy giáo tháo giầy, vấy đất vất đấy.
Thầy tu thù Tây, cạo đầu cầu đạo.


5. Vận dụng các chữ đồng âm :

Khá thú vị
Con ngựa đá con ngựa đá, con ngựa đá không đá con ngựa
Thằng mù nhìn thằng mù (bù) nhìn, thằng mù (bù) nhìn không nhìn thằng mù


Ngày nay Ngày Nay in nhà in nhà.
(Ngày Nay là tên một tờ báo của nhóm Tự Lực Văn Đoàn)
Trọng tài trọng tài vận động viên,
Vận động viên động viên trọng tài.


6. Tách chữ :

Các chữ công kênh, cồng kềnh, cóc cách, cọc cạch được tách ra ở hai vế:
Con công đi qua chùa Kênh, nó nghe tiếng cồng, nó kềnh cổ lại
Con cóc leo cây vọng cách, nó rơi trúng cọc, nó cạch đến già.

(Chùa Kêng ở Bắc Ninh, kềnh là ngoảnh lại, vọng cách là cây dùng để ăn gỏi, cạch là chừa bỏ vì sợ)

Các chữ kim chỉ, vá may:
Ngựa kim ăn cỏ chỉ
Chó vá cắn thợ may


Tách tên nhân vật:
Thúy Kiều đi qua cầu, nhác thấy chàng Kim lòng đã Trọng
Trọng Thủy nhòm vào nước, thoáng nhìn nàng Mỵ mắt rơi Châu.


7. Vận dụng chữ trái nghĩa:

Câu đối của Tú Cát và Trạng Quỳnh:
Trời sinh ông Tú Cát
Đất nẻ con bọ hung

(Hán Việt, cát là tốt, hung là xấu)

8. Vận dụng cả đồng âm lẫn đồng nghĩa :

Câu đối của bà Đoàn Thị Điểm bắt bí Trạng Quỳnh:

Da trắng vỗ bì bạch
(Bì bạch là Hán Việt, đồng nghĩa với da trắng & đồng âm với từ tượng thanh bì bạch)
Rừng sâu mưa lâm thâm
Cô Miên ngủ một mình
Trời xanh màu thiên thanh

Lộc là hươu, hươu đi lộc cộc
Ngư là cá, cá lội ngắc ngư

Cốc cốc đánh mõ rình cót thóc,
Thử đêm nay chuột có cắn không

Tùng tùng hồi trống đào cây thông,
Ô cành nọ quạ không đậu được


Có một vế thách đối hóc búa, đang chờ người tài hoa:

Cha con thầy thuốc về quê, gánh một gánh hồi hương, phụ tử
(Các chữ Hán Việt hồi hương, phụ tử đồng nghĩa với về quê, cha con và đồng âm với tên hai vị thuốc bắc hồi hương, phụ tử)

9. Lấy hai câu thơ trong Truyện Kiều rồi thêm hoặc bớt một tiếng:

Câu đối dán ở cửa buồng vợ lẽ:
Khi vào dùng dằng, khi ra vội ..
Nỗi đêm khép mở, nỗi ngày riêng ..


(Bỏ hai chữ vàng và chung)

Câu đối Tết

Người Việt Nam chúng ta mỗi dịp xuân về có tục chơi câu đối Tết.
Tục này không biết rõ phát sinh từ thời nào nhưng chắc chắn là cũng lâu lắm rồi. Câu đối sau đây chắc không ai trong chúng ta mà không biết:
Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ
Nêu cao tràng pháo bánh chưng xanh

Xuân lai tăng lộc thọ
Phúc đáo vĩnh Khang Ninh


Những câu đối của Hy Văn tướng công Nguyễn Công Trứ:

Tả cảnh nghèo của một kẻ sĩ:
Tối ba mươi nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa.
Sáng mồng một rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông Phúc vào nhà.

Công nợ rối canh tàn, ước những mười năm dồn lại một.
Rượu chè tràn quy tị, trông cho ba bữa hóa ra mười.


Trong cảnh thanh bần, nhiều khi không đợi, không mong mà xuân vẫn cứ đến:
Duột trời ngất một cây nêu, tối bữa ba mươi ri là Tết.
Vang đất đùng ba tiếng pháo, rạng ngày mùng một rứa cũng xuân.

Bàn một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái.
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.


Cụ cũng giúp cho người mù, không biết màu sắc Xuân, hương vị Tết ra sao một câu đối tức cảnh:
Tối ba mươi nghe tiếng pháo Giao Thừa ờ ờ Tê't.
Sáng mùng một vấp nêu Nguyên Đán à à Xuân.


Nữ sĩ Hồ Xuân Hương với lời thơ lãng mạn, đã làm câu đối Tết rất trào lộng:
Tối ba mươi khép cánh càn khôn, đóng chặt lại kẻo ma vương đưa quỉ tới
Sáng mồng một lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào.



Sưu tầm

Thạch Quỳ - Người nuôi ảo mộng giữa chiêm bao


Nhà thơ Thạch Quỳ

THÁI DOÃN HIỂU

Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

Có mùi mật trong hoa
Điều đó chú ong vàng cũng biết
Có hương thơm ẩn giữa sắc màu
Cái chuyện này, bướm tím biết từ lâu!
Nhưng bạn ạ! Hương trầm trong gỗ mục
Thì ong vàng, bướm tím có hay đâu...
(Luận về hoa)
Khi làm thơ, Thạch Quỳ luôn tìm ra “
Hương trầm trong gỗ mục”. Đấy là tài năng, và cũng là thi pháp nổi trội của anh. Bạn đọc có thể lấy điều ấy làm chìa khóa giúp tiến sâu vào địa hạt thơ ca Thạch Quỳ để khám phá và hiểu biết.
Thạch Quỳ đã cho in 6 tập thơ nhưng người không có khái niệm về hai tiếng “tập thơ”, thường lấy đơn vị bài làm thước đo bản vị cao thấp thơ mình.
Thơ Thạch Quỳ là một thứ thơ bản ngã nguyên chất. Nhà thơ luôn luôn tìm cách nói về mình và nhân danh mình để viết.
Anh bảo “
Thân thể tôi như chiếc cột ăng ten - Vừa phát sóng, vừa tự mình rỉ sét”. Nhà thơ ráo riết đi tìm cái tôi bị đời đánh cắp, đánh tráo, đồng hóa giữa một cuộc sống chẳng êm ả chút nào, bao giờ cũng gập ghềnh đầy tai biến. Là người có khí phách và cá tính mạnh, Thạch Quỳ đã hứng chịu nhiều tai bay vạ gió “Từng đối mặt với bạo tàn chết chóc - Máu trào tuôn, sẹo đóng tự trong hồn - Tôi mệt mỏi đến không còn sợ chết - Nhưng vẫn lòng ham sống thật tôi hơn (Tôi). Thạch Quỳ từng sống trong tâm trạng “Anh đã đi như người trong mộng - Anh đã bơi như người trong sóng” , và lâm vào tình huống không mấy sáng sủa “anh đã khô kiệt cùng đá sỏi - anh đã kêu kiệt cùng tiếng gọi - anh đã mơ cạn kiệt giấc mơ” (Cuối cùng vẫn một mình em). Không còn cách nào khác, trời thấp nhà thơ buộc phải đi còm “Len lỏi giữa thiên thần, yêu quái - Lẽo đẽo bóng mình dị dạng sau chân...” (Đêm vườn rừng). Một sự giằng xé nội tâm quyết liệt, ảo giác dày đặc bủa vây Thạch Quỳ “Bàng hoàng giữa một ngày - Mình sống hay chẳng sống?”(Không đề), thi nhân cảm thấy mình rất đơn chiếc “Nghìn năm rồi biển hát - Một bài ca chán nhàm - Tôi nghìn năm trước biển - Dấu chân còn lang thang” (Viết trước biển). Giữa mênh mông tuyết trắng rợn ngợp không bến bờ ở xứ người, anh thấy mình chỉ là một “chấm nhỏ giữa bốn bề hư vô” (Tuyết). Từ những chiêm nghiệm vật vã đau đớn đó, Thạch Quỳ đã nhận ra “hạnh phúc trang nghiêm trong thất vọng kiếm tìm”. Và giữa đời thường, nhà thơ khác thường này cũng có lúc bế tắc “Rồi dẫm chân tại chỗ - Tôi quẩn theo bóng mình”, buông xuôi tay chán ngán “Tôi chẳng còn chính tôi - Thơ nối dài chi nữa” (Thư). Nhà thơ tự thấy mình là một người thừa giữa nhân thế:Điều tôi nói chừng Chúa Trời chưa biết
Phật chưa nghe và Trời cứ làm thinh
Tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình
Nhân danh một chính mình tồn tại
(Tự khúc mùa xuân)
Đó là sự “mềm yếu” tinh thần cao cả duy nhất của Thạch Quỳ.
Lỗi lầm chủ yếu và lớn nhất của Thạch Quỳ là có khá nhiều lỗi nhỏ. Thạch Quỳ làm chủ ý chí và thành tâm làm kẻ nô bộc cho lương tâm của anh. Người có lương tâm trong sạch giúp định hướng cho cuộc đời vào con đường ngay thẳng tươi sáng và có thể chịu đựng được những thử thách nghiệt ngã.
Khi lương tâm bảo thì phải tuân lệnh. Sống, đừng để lương tri khiển trách và chớ trốn chạy sự quở mắng của tục nhân. Trước pháp đình của nhân cách, chẳng có ai làm chứng trung thực bằng lương tâm. Nó là vị quan tòa thiếu tư cách pháp nhân nhưng lại thừa đạo hạnh. Lương tâm chính trực và tỉnh táo luôn minh chứng cho anh tất cả, tốt hơn mọi lời tụng ca hay xỏ xiên xằng bậy.
Thạch Quỳ đến với nghề văn thật gian nan. Nhà thơ đã từng kể về công việc làm thơ của anh: “
Khoảng 15 năm, tôi phải sáng tác trong phòng ngủ tập thể. Lúc 11 giờ đêm họ tắt đèn đi ngủ, tôi dùng bút chì để ghi chừng, viết mò trong bóng tối. Tôi thức thâu đêm, từ đó thành thói quen. Viết văn, làm thơ trái với nghề chính nên phải vụng trộm, giấu lén và luôn bị khích bác. Nhưng lòng say mê đã thắng. Tôi luôn luôn hướng tới những cuộc cách mạng, những vụ bùng nổ trong tâm hồn con người để đến với cái đẹp” (Tự bạch). Thạch Quỳ rất dễ thơ, thấy bất cứ cái gì, điều gì, anh đều nhanh nhẹn nghĩ ra một cái gì đó khác người để viết: thuốc lá, tim, đàn tế trời, hồ Kẻ Gỗ, đền Cuông, khó ngủ, khói, tôi... Anh ưa cười. Phiếm luận của anh toàn giọng bỡn cợt chòng ghẹo buông tuồng nhưng mà đau, ánh lên chất thông minh quái quỷ.
Với thơ, Thạch Quỳ có những hình ảnh ví von thật đạt “
Trung liên quây như chảo mật đang sôi”; những nhận xét tinh vi “Đỉnh sừng nhô hai hạt nếp trắng tinh” (Trâu đi), “Dưới cao vợi sao dày như nếp nổ” (Tiễn em trai đi vào, tiễn em gái đi ra). Nhà thơ như một lão nông, quan sát kỹ không bỏ sót đến cả “Bọt trứng vàng gốc lúa, bùn sâu nằm sủi tăm”; những hình ảnh về chiến tranh gây ấn tượng “Có thành phố nào như thành phố này không - Chưa thấy nhà cao chói lọi sắc hồng - Đa thấy sắc hồng cười trong gạch vụn” (Gạch vụn thành Vinh). Thạch Quỳ dựng được những thi tứ rút ra từ trong khoảnh khắc hiếm hoi “Những con bê - bom xẻ đôi bò mẹ - Vẫn ngậm nguyên núm vú nhay hoài” (Tâm sự thần sấm sét...), và “Những hàm răng xích xe tăng - Đang nhai nghiến ruộng vườn trong lửa đỏ”. Nói về cái khốc liệt của thiên nhiên ở một vùng quê, anh tả gió Lào nóng bỏng “Cây trâm bầu gió nhổ rồi - quẳng lên cả rễ ngang trời mà quay” giữa hối hả âm thanh “Tiếng đa đa kêu vỡ đá gầy”. Anh có những câu “độc” “Chiêm bao gặp mộ mình không cỏ mọc - Riêng điều này là nỗi sợ của tôi” (Bên lề cỏ Uýtman). Thơ Thạch Quỳ có nhiều câu rắn đanh chứa chất tục ngữ “Giọt mưa gom hạt bụi hóa phù sa” (Gom nhặt trên bãi bom B.52), bên những câu dân dã đầy kỷ niệm tuổi thơ “Trẻ chăn trâu cổ quấn dây thừng - Nhảy và hát khúc đồng dao cúng quắng” (Ghi chép ở đền Khai Long). Nhà thơ hay đặt những câu hỏi oái oăm làm người đọc chau mày sau đó mới vỡ ra nhiều lẽ “Nghìn năm mưa đã từng mưa - Thấm vào viên sỏi hay chưa thấm vào?” (Lời nghìn năm). Bằng cảm quan lịch sử và văn hóa cao, Thạch Quỳ có sự nhìn nhận để thể tất nhân tình trước bi kịch nước mất nhà tan của cha con An Dương Vương - Mỵ Châu “Lưỡi gươm ròng ròng máu tươi - Nước mắt ướt đầm yên ngựa - Chỉ có đất với trời và cỏ - Hiểu đường đi của giọt máu người” (Qua đền Cuông ghi chuyện cũ). Thạch Quỳ nghe từ màu sắc, nhìn từ âm thanh “Lặng im trên cát con sò - Nằm nghe sắc tím đổi mùa trên lưng” (Làng cát). Tâm hồn nghệ sĩ đó luôn lay động, tỉnh thức, thâu tóm được cả trời biển trong một ngấn sóng trên bức tường bất động “Với Lan Châu ngấn sóng ánh trên tường - Luôn luôn động theo nhịp trời, nhịp biển”. Thạch Quỳ hào hoa với Huế “Xao xác cả trưa hè trong phượng chói” (Huế), cảm được “Thuyền đêm nằm đợi bóng trăng hoang” (Thôn Vỹ), hiểu được “một trăng suông nhạt chòng chành đáy sông”, thương được “Cái chân ai bước giữa vòng nam ai” (Đêm sông Hương).
Cũng như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Tú Xương..., Thạch Quỳ luôn thấm thía cái sự nghèo của mình. Nghèo thì hèn. Giàu có quá là ăn cắp nhưng cùng khốn quá là bởi bị đánh cắp. Luân lý trọng lợi hủy hoại vẻ đẹp của tâm hồn, vô hiệu hóa nhân đức, bêu riếu lịch sử và treo một chiếc gương tối tăm cho lớp trẻ. Ai đó cùng than nghèo khó sống, giàu khó chết. Người nghèo thường sống rất tử tế. Đừng khinh nghèo, chớ cậy giàu. Người Anh bảo “
Nghèo không phải là điều xấu hổ nhưng xấu hổ vì nghèo mới là nghèo”. Thạch Quỳ có hai câu thơ vẽ chân dung mình rất Nghệ: “Cái nghèo đội nón cời và nhón chân đi từng bước - Cười sưa răng trên miệng ấm sứt vòi” (Cái nghèo). Anh chỉ tên vạch mặt cái nghèo “Mày núp trong vừng trán mẹ răn reo - Mày ẩn dưới gót chân em nứt nẻ - Mày luồn qua trăm ngàn mối chỉ - Để nằm trong mảnh vá áo con ta”, “Đêm ta ngủ thì mày hóa kiến - Bò nôn nao trong ruột đói của ta”. Anh thảng thốt phát hiện ra “cái nghèo có nọc - Đốt cha ông từ thuở chẳng chăn màn”, “cái nghèo xơ trên bộ cánh làm sang - Cái nghèo xác lại nằm trơ đáy đĩa” (Cái nghèo). Sách Luận ngữ dạy“Nghèo không oán mới khó, giàu không kiêu còn dễ”. Nghèo túng nhưng vẫn chơi sang “Nhà thơ nuôi họa mi - Hót xanh trời trứng sáo”, vẫn lãng mạn “Tôi chờ ai nữa? Mùa thu rộng - Gió thả bên trời lá liễu bay” (Mây trắng mùa thu), vẫn cốt cách phong lưu “Mơ một lần quẫy đạp - Ngập chìm trong sóng xanh” (Cỏ), vẫn trẻ trung phơi phới “Cỏ đừng già cỏ nhé - Dù tuổi thơ qua rồi - Đất giữ gìn cho cỏ - Cỏ giữ gìn cho tôi” (Cỏ), vẫn hây hây lồng lộng hồi sinh khi nhìn ngắm:Con chim hót nhả hạt cây
Tiếng chim xanh ở trong tay người trồng
Qua bạch đàn đã đến thông
Thấy cây đang độ đuôi công múa xòe

(Lục bát về thông)
May thay, cái nghèo là nguồn năng lượng kích thích sáng tạo nghệ thuật. Nhà thơ vẫn cứ mộng du giữa đời thực đang chực giơ nanh vuốt “
Cỏ biếc, bờ xanh, đường sá rộng - Mình tôi lạc giữa ngõ ra vào” (Mây trắng mùa thu), vẫn thủy chung với thơ “thỉnh thoảng nàng thơ ghé đến - Rồi lướt đi, không biết đã về đâu...” (Gửi em); vẫn phấp phỏng với người tình bé nhỏ:Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước
Góc vườn con, hoa mận đã đơm khuy
Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc
Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về.

(Đợi em ngày giáp tết)
Vẫn yêu một tình yêu “dan díu” say đắm run lên như thuở ban đầu, mặc cho “
nhỡ bước chân qua”, mặc cho “Em quay lại, đã trắng mùa trên tay...” (Bước xuân), phó cho quy luật của trái tim nổi loạn:Có một nửa đang đi tìm một nửa
Như vầng trăng ngoài cửa, phía trời xa...
Anh yêu em hơn thần thánh yêu nhau
Một khẽ chạm tay rung toàn thân thể
Và bởi vậy, tình yêu trần thế
Đủ để thánh thần mơ ước trên cao

(Không đề)
Đã thế, người vẫn cứ cao giọng lý sự:
Cuối ngày tôi sót lại em
Cuối em, sót lại trong đêm ánh đèn
Giấc mơ mở lối cái nhìn
Ta khép mắt, thấu thị miền không ta.

(Đêm)
Thạch Quỳ còn ráo hoảnh tự bào chữa đổ riệt cho tất cả chỉ là do “
Muốn thoát khỏi tình yêu - Thoát tình yêu chẳng dễ” (Không đề) để trốn tránh trách nhiệm.
Là nhà thơ phải đãi quặng tìm vàng, Thạch Quỳ viết về cái lao tâm khổ tứ của mình khi hóa thân “
Viết, viết, rồi lại viết - Vắt kiệt cả máu mình - Tình yêu đặt lên giấy - Tâm hồn thì trống trênh” (Nhà thơ). Lao động nghệ thuật của nhà thơ là thế đấy, gian nan như kẻ vượt cạn, như người đàn bà đẻ mà không có con trong bụng để rặn “Tôi gọi hồn về trong những câu thơ - Giam ngục tối con chữ - Hồn ơi, hồn hãy ở tù - Để xác tôi yên giấc ngủ”. Trong trạng thái cô độc âm thầm trọn vẹn theo nhau như cái bóng, cùng mái đầu bạc chắn ngang cuộc đời, chỉ có điều là “Thân thể không tan thành khói được” (Bài ca thuốc lá), trái tim nhạy cảm Thạch Quỳ “Đều đặn đập bảy mươi lần một phút - Xâu thời gian thành chuỗi hóa đời anh” (Trái tim). Tim nhà thơ mềm nhưng rắn, nó chẳng bao giờ lãng quên nhân thế trong ngực lớn bồi hồi của anh “Trái tim nói những điều hệ trọng - Cả những điều ta tưởng rất vu vơ” (Trái tim). Khi bóng chiều chạng vạng phủ lên tuổi tác, Thạch Quỳ tổng kết nửa phần đời của mình :Nửa ngửng đầu ngóng tìm cái Đẹp
Nửa cúi đầu xoay tìm cái ăn
Nửa lụy yêu ma, nửa lụy thánh thần
Còn một mái tóc đốm bạc
(Nửa phần đời)
Người ta kháo nhau ở đâu đó rằng Thạch Quỳ sống ngông, thơ ngông (!?), lãnh đạo không ưa, và những người sống an phận dễ ngán? Tại sao lại không 
ngông được khi trần trụi giữa đời mọi giá trị đều bị đảo ngược. Một Tú Xương mới tất yếu phải được mọc ra là lẽ đương nhiên, có gì phải phàn nàn, cay cú. Chính Thạch Quỳ đã tự thú để bảo vệ mình “Có gì như có lỗi - Mà có lỗi gì đâu” (Cò). Giữa một xã hội “Người mang hình đá - Đá mang hình người” (Tảng đá hình người), anh kinh hồn nhận ra cái gì cũng lai từ con gà, hạt gạo, đến cả “Thơ phú thị truờng dần lai kinh tế - Nửa hồn ta lai nửa hồn mình”. Sống trong một thế giới rối ren bị xáo trộn “Cái mất đi hú gọi không về - Cái còn lại trơ mòn sỏi đá”, Thạch Quỳ đau cái đau của người mất sạch gia tài văn hóa. Sự nghiệp Thạch Quỳ bò như rùa, còn cái nghèo thì luôn bá vai bá cổ nhà thơ. Xưa nay “nghệ nhân nan phú” (nghệ sĩ khó mà giàu). Chìm nổi là vận hạn của tài tử. Anh hoa phát tiết thường là tai vạ mà miệng là cửa ra của họa phúc. Nhiều người thương thành phúc, lắm kẻ ghét thành họa. Không một hạnh phúc nào là không chứa tai ương, không vinh quang nào lên đến tột đỉnh mà lại không bị tai ách quật nhào. Người mạnh thăng hoa trong bất hạnh, kẻ yếu lụi tàn trong vận may. Thành thử, thơ Thạch Quỳ chứa biểu tượng không phải hai mà nhiều mặt là một tất yếu của nghệ thuật. Cái ưu thế này bỗng chốc trở thành cái thất thế của Thạch Quỳ, lỗi đâu phải ở nhà thơ mà lỗi tại người nhận thông tin có tên là Đố-Ky -Ấu-Trĩ. Bởi thế, cái án “Ngục văn tự” vẫn còn là chuyện kể dài dài đeo đẳng hành tội các kẻ sĩ chân chính tồn tại hàng nghìn năm tới nay. “Là người nuôi ảo mộng giữa chiêm bao”, Thạch Quỳ chán nản quả quyết khẳng định “Cuộc đời tôi thật nhất vẫn là mơ...”. Anh nói vậy mà đâu phải vậy! Từ khởi thủy, con người hình thành cách sống, bài học vỡ lòng đầu tiên là tính lạc quan. Cái lôi cuốn nhất trong đam mê cá nhân là hy vọng. Nó vực ta dậy, nuôi dưỡng, xuýt xoa cùng ta những cay đắng mùi đời. Hy vọng thường chen lấn nằm ngay cả trong tuyệt vọng. Phẩm tiết của người có tâm hồn lớn là luôn hy vọng, đẩy lùi sự tuyệt vọng. Thật là bất hạnh và khốn khổ cho ai đó chẳng biết ngày mai mình phải làm gì. Với họ, hy vọng là giấc kê vàng của kẻ điên rồ khi thức giấc. Ở đâu có cuộc sống, ở đó có hy vọng. Chớ ảo vọng vào ai đó, đừng vọng tưởng vào một cái gì quá sức. Kỳ vọng thái quá chỉ tạo ra sự gạt gẫm mình, bắt ta phải trả giá. Trên trường đời, nếu chẳng may sa chân rơi xuống vực thẳm thì tuyệt vọng sẽ nhân đôi lên sức mạnh của chúng ta nếu biết cách chế ngự nó. Tuyệt vọng là bà đỡ của kẻ cố cùng. Và rồi, hy vọng sẽ làm cho vết thương thành da, hy vọng xua đuổi mọi sự khốn quẫn. Còn sống còn hy vọng. Có hy vọng, có tất cả. Biết nhìn thẳng vào tương lai thì sẽ không bị hối hận bởi quá khứ. Nhà thơ hãy kỳ vọng ở chính mình!
Thạch Quỳ vẫn hy vọng trong đợi chờ “
Nửa phần đời chong mắt đèn xó tối - Nửa phần đời khép mắt ngóng ngày lên” (Nửa phần đời). Giằng co giữa cơm áo và thơ, thi nhân vẫn chưa mất niềm tin ở quy luật sống :Nghìn năm biết có còn không
Hoa trên đá, phấn trên thông ghẹo người...
Tháng năm lần lữa đắp bồi
Lặng im để cỏ nói lời nghìn năm.

(Lời nghìn năm)
Thạch Quỳ thực sự là nhà thơ thứ thiệt của làng quê. Sau Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân, cùng Ngô Văn Phú với Trần Đăng Khoa. Thạch Quỳ đang góp phần hoàn chỉnh bức tranh quê ở phương diện tả trực tiếp công việc nông tang nặng nhọc cày cấy, gieo trỉa, gặt hái giữa mù mịt thiên tai hạn hán, lụt lội, bão tố hoành hành khắc nghiệt... Đây là đất quê hương Đô Lương của nhà thơ “
Đào đất lên nơi nào cũng đỏ - Đập đá ra có ánh lửa ngời”; nơi đó “Hạt cát biết mọc cánh bay - Làm mưa trên mái, suốt ngày mưa khô” (Làng cát); nhưng chốn ấy có những nàng thôn nữ  xinh đẹp duyên dáng, đảm đang nổi danh gái Phường Lường “xắn quần ngang gối giục trâu cày” giỏi lội bùn cấy lúa và cả “Ghẹo khách qua đường mượn câu hát dặm - Che nón cười gương mặt đỏ như say”; nơi đó có những sản vật quý “Vải mật Thanh Lưu chín mọng đầu cành”, có những địa danh Khả Lưu thời Lê Lợi dàn quân huyết chiến cùng giặc Trương Phụ, có danh thắng “Vực Cóc đây thăm thẳm một hang trời - Bè nứa chui vào ngỡ đi về xứ khác - Nhớ lúa Ba Ra mỉm miệng cười - Trắng xóa muôn nghìn thác bạc” (Đất Đô Lương). Là thầy giáo dạy toán học, Thạch Quỳ tả tiếng chim tuyệt đối chính xác, anh lắng nghe bằng cả tâm hồn: “Tiếng dú dị trầm đều như đất thở”, “Tiếng gà gáy cong như vòi hái”, “Tiếng vàng anh tròn như đồng tiền - Gieo tít tận trời cao gieo xuống”, khi lại là “Tiếng vàng anh vàng lựng trái xoan...”, “Con cú rúc sôi tròn như thắng mật”, “Nghe cu đất hót tròn vo hạt đỗ”, “Chiền chiện hót thơm lừng mao lúa”, “Chèo bẻo hót xanh trời trên ngọn mít”..., khi quan sát anh huy động tất cả các giác quan “Tiếng chim chiền chiện không tan vào im lặng”, “Tiếng chim len trong lá hé mắt nhìn...”, “Con mách khách nhảy cành cam qua cành khế”, “Tiếng con chim kẹt võng nhớ lời bà”, “Con chim hét kêu đêm mẹ ra đóng cửa - Con quạ kêu ngày bà lo đàn gà toi - Tiếng chào mào ríu rít những trưa vui”. “Lúa chín sẫm trên lưng con cu vày hót xù lông cổ - Nắng lên rồi, tu hú gọi bâng khuâng”, “Buổi cày trưa bìm bịp gọi trong lùm”, “Tiếng khướu đất hót từ cái mỏ khum khum”,”Con sáo hót làm đầu ta ngoái lại”, “Bọn giết người không thể hiểu tiếng chim đâu - Ta lấy tiếng chim làm mật lệnh”... Những lúc ấy, ta thấy Thạch Quỳ có miệng ngậm và tai mở. Nghe tiếng hàng trăm loài chim hót chộn rộn mà phân biệt được rạch ròi tinh tế đến vậy để rồi hạ được một nhận xét có tầm khái quát cao “Giữa cuộc đời lẫn lộn cả buồn vui - Tiếng chim cũng tiếng lành tiếng dữ” (Tiếng chim). Phải là người gắn bó sống nhiều ở làng quê, say mê máu thịt, để tâm quan sát kỹ Thạch Quỳ mới viết có chiều sâu và thi vị đến thế. Cái biết quyết định cái thấy, cái hay của Thạch Quỳ thuộc về vốn sống, kinh nghiệm, tài năng, tấm lòng nhân hậu của anh. Trực giác thi ca của Thạch Quỳ thường nảy nở bên trong tiềm thức.Tiếng chim rót làm mầm cây mở uống
Sắc màu xanh, tiếng hót cũng xanh
Tiếng chim treo trên quả chín rung cành
Che suốt đường em đi cùng anh...

(Tiếng chim)
Nhà thơ làm thơ gieo bằng các con chữ chung. Người thường làm thơ phải lấy cái thâm tình nồng hậu của riêng mình tự tâm đắc để thấu triệt cái lẽ ở chỗ tác giả nói thầm, lúc ấy ta mới mong mở được cánh cửa để nhìn vào một thế giới mới bên trong - cái mà Lục Giả thời xưa tâm niệm “
Ẩn chi tắc đạo, bố chi tắc vi thi” (Ẩn bên trong là đạo, bày ra bên ngoài là thơ). Thơ hình thành từ những trận bão lòng. Các bài thơ hay dường như ra đời một cách ngẫu nhiên, bất ngờ như tình yêu bỗng dưng xuất hiện, nhắm tới một đối tượng xác định và một mục đích nhất định.
Không phải ai tu cũng đắc đạo cả. Thi sĩ là con ong. Phải biết chọn hoa để làm mật, không cẩn trọng dễ thành ra mật đắng. Thạch Quỳ đã nhập cõi bằng tâm đức và số phận của mình. Thành thử đọc thơ không dễ. Thiếu một cặp mắt tinh khi đọc sẽ vùi dập nỗi khổ tâm của người viết. Tìm ra chỗ khúc mắc mới tỏ được nỗi tâm huyết của nhà thơ. Ngôn ngữ là cái bóng của hành động, việc làm, nó lột tính cách thi nhân. Giữa giấy trắng mực đen, chữ nghĩa quyết định sự sống còn của tác giả. Rõ ràng là thực tiễn của thi ca Thạch Quỳ đã ứng với điều chăm bẵm của nhà thơ “
Bản chất cái đẹp có các phẩm chất của nó. Một cách hồn nhiên nhất, như không hiểu biết, nghệ sĩ luôn sáng tạo để phát triển cái đã có, đã nhận thức. Nghệ sĩ phải cao hơn những lời tán tụng, sự hâm mộ và cả sự tán thưởng của công chúng” (Tự bạch).
Lưu Hiệp trong 
Văn tâm điêu long cho rằng “Người làm thơ có thể giàu có ở vạn bài nhưng có khi lại nghèo ở một chữ”. Thơ Thạch Quỳ có những điểm yếu nhất định về cấu tứ, thi pháp, ngôn ngữ. Chúng ta có thể dễ dàng nhặt ra được những hạt sạn nhỏ ngay cả trong bài thơ hay như Tiếng chim: - Từ đồng nghĩa khác âm còn thiếu nên hay lặp: “Chỉ biết tiếng bom gầm không át được - Tiếng chim nằm trong trái tim người đi.”
Chữ “
trái tim” đã dùng hai lần ở trên, nên thay vào đây bằng từ tương đương “lồng ngực” hợp lý hơn.
- Thừa chữ: “
Anh bạn Lào nhớ con chim trên váy xanh thêu chỉ của Bunmi”. Câu thơ này hơi bị “Lào” hóa và thừa hai chữ “chỉ” và “của”, đã thêu dĩ nhiên phải bằng chỉ, trong văn cảnh không phải của Bunmi thì của ai vào đây. Thử chữa lại: “Anh bạn Lào nhớ con chim thêu trên váy xanh Bunmi”, có Việt hơn không?
Sắn đã gieo xong, đỗ đã tỉa”. Hạt mới gieo, sắn trồng bằng hom (thân cây) thì gieo thế nào được. Tỉa là cắt bớt cành. Tiếng Nghệ nói gieo làtrỉa. Câu thơ nên chỉnh lại “Sắn đã trồng xong, đỗ đã trỉa”.
Tiếng chim rót và mầm cây mở uống”. Giữa chữ “” và chữ “làm” tiếng nào đạt hiệu quả nghệ thuật hơn? Chữ “” ngăn giữa phân đôi hai phạm trù độc lập, còn chữ “làm” biến nó thành cặp phạm trù hô ứng.
Tài nghệ của văn nhân theo tôi nghĩ là phải biết xóa bỏ không thương tiếc những cái cần xóa bỏ. Chỉ có như vậy, anh ta mới tiến lên được. Thơ là cái đẹp tối thượng của muôn loài. Là người trinh sát của thượng đế, Thạch Quỳ làm thơ là để đào thoát ra khỏi sự cô độc nhằm giải giới những ẩn ức của hồn mình. Thơ Thạch Quỳ có chỗ như trăng ngâm đáy nước, có chỗ như hoa chiếu trong gương, không dễ gì mà giải được. Anh cũng có những bài khó hiểu.
Thơ Thạch Quỳ trầm bổng nhiều cung bậc như một cây đàn muôn điệu, luôn nhất quán ở tâm hồn, không nhất quán ở giọng điệu. Nghe 
Tiếng chim mà làm được sáu đoản khúc tài tình như vậy sức viết quả là sung túc và trường vốn. Nhìn đống gạch vụn đổ nát do chiến tranh hủy diệt ở thành Vinh nghĩ được xa gần là rất sâu.Từ Cái đường thẳng nằm trong hình học của Ơclit nhảy sang Lôbasépxky khô không khốc đến cái chết của Galilê mà rút ra được bài học triết lý bổ ích cho cuộc đời, bộc trực được tâm tính con người như vậy là khá kỳ thú và tươi mát. Tình yêu mà lại tang tảng như Thơ viết ở Đàn Giao là rất nhộn. Những đề tài mòn nhẵn vềlàng cát, cỏ, cây thông, An Dương Vương - Mỵ Châu... mà nghĩ được riêng và đẩy được tới chốn vĩnh cửu như rứa là rất giỏi thơ... Phải chăng đấy là bằng chứng của sự đa dạng ở một phong cách đã định hình? Bạn đọc nên đọc toàn bộ thi phẩm Thạch Quỳ với 300 bài chứ không phải là hơn chục bài chúng tôi trích theo đây thì mới có thể kiểm chứng được nhận định này.

Nhà thơ Hoàng Cầm


Thi sĩ Hoàng Cầm
Vậy là kể từ hôm nay thi sĩ Hoàng Cầm sẽ vĩnh viễn ra đi, ông đi để lại trong ta nhiều tiếc nuối và lòng thương cảm sâu sắc.
Thi sĩ Hoàng Cầm có tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh ngày 22 tháng 2 năm 1922, tại xã Phúc Tằng, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang; quê gốc xã Song Hồ, huyệnThuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Ông xuất thân trong gia đình nhà nho lâu đời. Thân sinh ông thi không đỗ, về dạy chữ Hán và làm thuốc bắc ở Bắc Giang. Tên ông được đặt ghép từ địa danh quê hương: Phúc Tằng và Việt Yên. Thuở nhỏ, ông học tiểu học, trung học đều ở Bắc Giang và Bắc Ninh; đến năm 1938, ra Hà Nội học trường Thăng Long. Năm 1940, ông đỗ tú tài toàn phần và bước vào nghề văn, dịch sách cho Tân dân xã của Vũ Đình Long. Từ đó, ông lấy bút danh là tên một vị thuốc đắng trong thuốc bắc: Hoàng Cầm.
Năm 1944, do Thế chiến thứ hai xảy ra quyết liệt, ông đưa gia đình về lại quê gốc ở Thuận Thành. Cũng tại nơi này, ông bắt đầu tham gia hoạt động Thanh niên Cứu quốc của Việt MinhCách mạng tháng Tám nổ ra, ông về Hà Nội, thành lập đoàn kịch Đông Phương. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, ông theo đoàn kịch rút ra khỏi Hà Nội, biểu diễn lưu động ở vùng Bắc Ninh, Bắc Giang, Sơn TâyThái Bình một thời gian rồi giải thể.
Tháng 8 năm 1947, ông tham gia Vệ quốc quân ở chiến khu 12. Cuối năm đó, ông thành lập đội Tuyên truyền văn nghệ, đội văn công quân đội đầu tiên. Năm 1952, ông được cử làm Trưởng đoàn văn công Tổng cục Chính trị, hoạt động biểu diễn cho quân dân vùng tự do và phục vụ các chiến dịch.
Tháng 10 năm 1954, đoàn văn công về Hà Nội. Đầu năm 1955, do đoàn văn công mở rộng thêm nhiều bộ môn, Hoàng Cầm được giao nhiệm vụ trưởng đoàn kịch nói. Cuối năm 1955, ông về công tác ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm công tác xuất bản. Tháng 4 năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam, và được bầu vào Ban chấp hành. Tuy nhiên, không lâu sau, do vụ án "Nhân Văn Giai Phẩm", ông phải rút khỏi Hội nhà văn vào năm 1958 và về hưu non năm 1970 lúc 48 tuổi.
Ông nổi tiếng với vở kịch thơ Hận Nam QuanKiều Loan và các bài thơ Lá diêu bôngBên kia sông Đuống. Bài thơ Bên kia sông Đuống được chọn vào giảng dạy trong giáo trình trung học phổ thông.
Ngoài bút danh Hoàng Cầm ông còn có các bút danh: Bằng Việt, Lê Thái, Lê Kỳ Anh, Bằng Phi.
Ông hiện sống ở Hà Nội.
Đầu năm 2007, ông được nhà nước Việt Nam tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng.




Nguyên Hồng đã khóc khi nghe bài thơ "Bên kia sông Đuống"


Em ơi, buồn làm chi. Anh đưa em về sông Ðuống. Ngày xưa cát trắng phẳng lì... Ðó là những câu thơ mở đầu của Bên kia sông Ðuống trong SGK Văn lớp 12.
 “Tôi không biết sau khi đưa vào SGK các thầy cô giáo giảng thế nào về tiểu sử của bài thơ, nhưng như ngay cháu tôi nó đi học về cứ vặn hỏi tôi: “Ông ơi! Sao lúc ông viết bài thơ Bên kia sông Đuống ông lại khóc?- nhà thơ Hoàng Cầm kể - “Tôi biết có sự hiểu lầm gì đó nên nói với cháu: “Ông rất xúc động khi viết bài thơ ấy nhưng ông không khóc mà chỉ nhà văn Nguyên Hồng sau khi nghe ông đọc thơ rồi khóc thôi...”.
Ông viết bài này lúc đang ở chiến khu 12 trong kháng chiến chống Pháp (gồm địa bàn các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Hải Ninh (cũ) và Lạng Sơn). Qua nửa đêm sau khi nghe các đồng chí ở làng Đông Hồ lên báo cáo về tình hình chiến sự ở vùng quê mình, ông như “ngồi trên cả đống than, đống lửa, lòng dạ rối bời chỉ ước có cánh bay thẳng về nhà xem cơ sự thế nào ... Tôi vô cùng đau đớn vì ở đó tôi còn mẹ già, vợ và ba đứa con thơ”.
Ngay đêm ấy, ông đã viết bài thơ này. Nhà thơ Hoàng Cầm rưng rưng xúc động như chính được sống lại giây phút ấy: “Cứ thế mạch tình cảm tuôn trào như nước chảy không thể nào ngăn nổi. Ðến bốn giờ sáng thì tôi viết xong và rất muốn đọc to cho ai đó nghe. Anh Nguyên Hồng sau một ngày bếp núc vất vả cùng anh em đã ngủ từ lâu.
Bình thường tôi không dám quấy quả anh ấy, nhưng vì vui mừng quá tôi liền đánh thức anh dậy. Anh thảng thốt nhìn tôi rồi hỏi: “Kìa, Hoàng Cầm đấy à, có việc gì cần mình thế!? Làm gì mà giờ này chưa ngủ? Mặt mày hốc hác ra rồi kia kìa”. Tôi nói với anh Nguyên Hồng: “Anh Nguyên Hồng, đêm qua cán bộ và nhân dân làng tôi ở Thuận Thành lên báo cáo: Giặc Pháp chiếm hết khu Nam phần Bắc Ninh rồi, kể cả cái làng Nguyệt Cầu mà hồi nào anh chạy giặc ở nhờ nhà ông Ngọc Giao ấy!
Mình xúc động viết bài thơ này đọc cho Nguyên Hồng nghe nhé”. Và tôi không biết giọng đọc của mình có gì hay mà mới chỉ đọc “Em ơi buồn làm chi? - Anh đưa em về bên kia sông Đuống... tự nhiên nhà văn Nguyên Hồng ôm mặt khóc nức nở. Ông vật mình thổn thức, nước mắt giàn giụa...”.
Tôi cắt lời nhà thơ Hoàng Cầm: “Vậy là nhà văn Nguyên Hồng khóc chứ không phải nhà thơ sao?” Nhà thơ Hoàng Cầm gật đầu “xác nhận” thay cho câu trả lời. Ông nói thêm: “Nhắc đến chi tiết này nhà thơ Hoàng Cầm kể lại: “Nhà văn Nguyên Hồng đa cảm lắm. Nghe tôi đọc thơ mà cứ khóc rưng rức. Tôi biết tính ông nên kệ, cứ đọc... cho đến hết bài thơ dài.
Còn nhà văn Nguyên Hồng cứ khóc... khi bài thơ đã kết thúc từ lâu. Sau đó nhà văn Nguyên Hồng lặng lẽ rút ra 4-5 tờ giấy trắng tinh (hồi ấy giấy rất hiếm, đến ngay nhà văn cũng chỉ dám dùng giấy giang Hoàng Văn Thụ chép bản thảo của mình mà thôi!) đưa cho tôi rồi nói trong tiếng nấc: “Hoàng Cầm này, cậu chép... chép cho... tớ ba bản thật sạch sẽ, bài thơ này rất cần cho nhiều người đọc... Nhất là các chiến sĩ ta”.
Hai tháng sau nhà thơ Hoàng Cầm đang hướng dẫn cho diễn viên tập vở kịch Đứa con nuôi thì bỗng nhà văn Nguyên Hồng xuất hiện ở bậc cửa, trên tay cầm tờ báo Cứu Quốc khổ nhỡ (do nhà nghiên cứu văn học Như Phong và nhà văn Tô Hoài phụ trách). Hoàng Cầm nói: “Anh Nguyên Hồng vẫy tay gọi tôi. Này Hoàng Cầm, bài của cậu tớ gửi, báo in rồi đây!
Tôi mừng quá, run run nhận tờ báo từ tay Nguyên Hồng. Lúc này bao nhiêu tâm sự trào dâng về quê hương, về cái làng Lạc Thổ phía bên kia sông Đuống, về các cô gái “môi trầu cắn chỉ”, về tranh Đông Hồ. “Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp...” đang bị giặc Pháp dày xéo dưới xuôi kia vẫn không thể làm hoen ố cái hồn dân tộc phập phồng trên nền giấy bản.
Tròn 60 năm bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm được nhiều thế hệ biết đến, yêu mến và chép tặng nhau đọc. Nhà thơ Hoàng Cầm tâm đắc với đứa con tinh thần của mình: “Viết về quê hương, nhất là nơi mình sinh ra và lớn lên, đòi hỏi phải có cảm xúc mạnh, trí tưởng tượng sâu rộng, sức liên tưởng dồi dào qua các sự vật tình cảnh có thực, đồng thời phải thấu hiểu lịch sử và nhân vật lịch sử của một vùng đất.
Từ nhỏ tôi đã theo mẹ đi lễ chùa, dự hội chùa Phật Tích, Chùa Dâu, Bút Tháp, Tiên Sơn, Long Khánh... và đến phường hát Quan họ mà mẹ tôi là thành viên. Những đêm hát ấy thấm đậm vào hồn tôi từ hồi đó. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” là một trong những bài thơ tôi viết nhanh nhưng lại thấy rất tâm đắc. Thời vượt Trường Sơn chống Mỹ, tôi rất cảm động và vui sướng khi thấy bài thơ nằm trong hành trang của rất nhiều người lính trên những chặng đường hành quân.
Và trải qua biết bao thăng trầm bi kịch, ông vẫn tin vào những đức tính của độc giả đối với thơ. Ðó là những tính cách mà theo nhà thơ Hoàng Cầm về tình cảm hiếm thấy ở các dân tộc khác, mà đặc biệt là sự gần gũi quấn quít nhau, nhường cơm sẻ áo trong khi hoạn nạn, tình cảm bạn bè bà con làng xóm.
Thơ là tấm gương của các tính chất ấy. “Không riêng gì bài thơ Bên kia sông Đuống mà hầu hết mỗi khi làm thơ tôi đều nhận thức rằng: Nhiệm vụ của nhà thơ là nói lên được tiếng nói riêng biệt của dân tộc mình trong cộng đồng nhân loại. Không thế thơ không hay được”- nhà thơ Hoàng Cầm đúc kết.  
Theo Yên Khương

An toàn xe nâng - cần phải được xem trọng

Thực tế là an toàn trong nhà kho, đặc biệt là an toàn xe nâng rất ít được các doanh nghiệp VN chú trọng, có lẽ xuất phát một phần từ việc quản lý kho đơn giản trong quá khứ. Nhưng thời thế nay đã khác, bạn có thể gặp những nhà kho hiện đại với những hệ thống kệ hoành tráng, phức tạp, với đội xe folklift, reach truck chạy như con thoi.Thế nên an toàn nhà kho phải được coi trọng. Vấn đề là làm sao để cho đội ngũ lái xe nâng và công nhân trong kho có thể hiểu hết tầm quan trọng của an toàn. Để làm được điều này các bạn phải huấn luyện đội ngũ xe nâng và và công nhân đến nơi đến chốn.
Dưới đây là một số đoạn phim giả định về một số tình huống hoặc một số tai nạn xe nâng có thật, hy vọng nó sẽ hữu ích cho các bạn trong công tác quản lý và và huấn luyện an toàn cho nhân viên kho.






MTH sưu tầm.

Chân dung Thái Doãn Hiểu qua đối thoại

TRÒ CHUYỆN VỚI  THÁI DOÃN HIỂU TÁC GIẢ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI


NHỤY NGUYÊN thực hiện

Biết về Nhà nghiên cứu và Phê bình văn học Thái Doãn Hiểu đã lâu song tiếp cận được mới thật khó. Nghe bảo ông từng lặn qua Nam bán cầu ở thành phố Sydney mong không bị ai quấy rầy để hoàn thành công trình thơ mà ông đeo đẳng có dễ gần vài chục năm nay, rồi sớm trở thành một cư sĩ bất đắc dĩ... Cũng thật khó hiểu, cái “siêu đầu” nom có vẻ hói ấy, ngỡ như tôi đã hân hạnh được gặp đâu đó tại một góc... biếm họa ! Vậy mà, trong dịp Festival Thơ Huế 2008 vừa qua, một người bạn vong niên của tôi đã lén “chỉ điểm” ông mà rằng: Thái Doãn Hiểu đấy. Chính y là tác giả của bộ sách hoành tráng bậc nhất về nền thi ca Việt Nam hiện đại. Ngay lập tức, ông bị dẩn độ về Tòa soạn tạp chí Sông Hương. Tại  đây, Ban biên tập đã hỏi cung ông…

Phạm Thiên Thư - Khi sư ông xả thân làm tín đồ thơ!

THÁI DOÃN HIỂU

Chân dung Phạm Thiên Thư
Trung thành với phong cách ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du, Phạm Thiên Thư đã vượt qua bút pháp ước lệ tượng trưng của chủ nghĩa cổ điển, khai triển tứ thơ nhẹ tự sự, nặng trữ tình trong những màn độc thoại nội tâm sâu sắc tình tiết. Đọc Đoạn trường vô thanh, bạn đọc sẽ hỏi: đây là tiểu thuyết bằng thơ? hay khúc ngâm? Rõ ràng nghiêng về khúc ngâm. Da thịt Hậu Kiều thì hồng hào tươi tốt, nhưng xương cốt của nó lại mềm yếu. Bằng cách để cho các nhân vật hồi ức, Phạm Thiên Thư đã tô đậm thêm những chỗ còn thiếu sót và mờ nhạt của Truyện Kiều Nguyễn Du. Nghệ thuật biểu hiện linh hoạt và ngôn ngữ cẩm tú của Đoạn trường vô thanh có khá nhiều câu, đoạn, chương hay nghiêng ngửa với Đoạn trường tân thanh. Hai quyển Kiều có giá trị bổ sung nâng đỡ làm đẹp cho nhau, chứ không phải loại trừ nhau như có người lầm tưởng.